Bất kỳ vết thương nào trên da đều trải qua tiến trình lành vết thương và để lại sẹo. Đây là hiện tượng tự nhiên của cơ thể khi phải chịu tác động trực tiếp từ các vết tích gây tổn thương đến da.
Mục lục bài viết
ToggleTrong đó có sẹo lồi là một loại sẹo trở thành “nỗi ám ảnh” với nhiều người bởi chúng gây mất thẩm mỹ và khó có thể phục hồi. Vậy những nguyên nhân gây sẹo lồi là gì và cách phòng tránh như thế nào? Hãy cùng tìm hiểu ngay nhé!
I. Sẹo lồi là sẹo như thế nào?
– Dấu hiệu nhận biết: Sẹo lồi khởi đầu trong vài tháng đầu sau khi bị thương, là một khối đỏ hồng, kích thước thay đổi tùy thuộc tổn thương da lúc đầu. Sẹo có giới hạn rõ, bề mặt căng bóng thấy được các mạch máu giãn bên dưới, mật độ hơi cứng như khối cao su. Sau đó, trong vòng năm đầu sau tổn thương, khối này sẽ phát triển quá mức nhưng lành tính, lan rộng và ra xa khỏi vị trí của vết thương ban đầu, có hình dạng không đều, bề mặt nhẵn bóng, sậm màu và cứng hơn so với da lành vùng xung quanh sẹo. Tổn thương sẹo lồi thường có phần bề mặt phát triển lan rộng hơn so với phần gốc.
Sẹo lồi thường không gây cảm giác khó chịu gì ngoại trừ vấn đề thẩm mỹ. Tuy nhiên, một số sẹo lồi có thể gây ngứa, hoặc hơi đau, hoặc cảm giác căng cứng.
– Sẹo lồi thường xuất hiện ở các vùng trước xương ức; tiếp đến là dái tai (sau xỏ lỗ tai), vai, lưng, cổ, tay, chân. Hiếm khi ở mặt, các vùng khác của thân mình, lòng bàn tay, lòng bàn chân.
Người có nguy cơ bị sẹo lồi cao nhất nằm trong độ tuổi 10-30 tuổi. Dù chưa có số liệu chứng minh rõ ràng nhưng đa phần nữ giới có xu hướng hình thành sẹo lồi cao hơn là nam giới.
II. Nguyên nhân gây ra sẹo lồi
Sẹo lồi thường xuất hiện sau khi da bị tổn thương. Tổn thương có thể là do:
– Chấn thương, vết rách da do tai nạn,
– Vết cắt do phẫu thuật,
– Bỏng da,
– Một số bệnh lý ở da như mụn trứng cá, nhiễm trùng da,…
Tuy nhiên, vết thương da chỉ có thể trở thành sẹo lồi khi tồn tại những yếu tố nguy cơ sau đây:
– Người có cơ địa bị sẹo lồi, tức là những người đã từng bị sẹo lồi trước đó.
– Vết thương bị căng quá hoặc chùng quá.
– Tồn tại vật lạ trong da.
III. Những cách phòng tránh sẹo lồi hiệu quả
Khi gặp vết thương trên da thì nguy cơ hình thành sẹo lồi là rất cao, do đó bạn nên lưu ý những điều sau để hạn chế cho sẹo lồi có cơ hội hình thành trên cơ thể mình:
– Khám và điều trị ngay, đúng cách các bệnh da nếu có; chăm sóc thích hợp để ngăn ngừa tổn thương, nhiễm trùng.
– Không nên thực hiện những phẫu thuật thẩm mỹ không cần thiết ở những người được biết là có cơ địa sẹo lồi.
– Đối với các vết thương thì tránh làm cho da bị quá căng hoặc quá chùng.
– Khi cần thiết thực hiện phẫu thuật thì nên rạch da theo đường nếp da (tức là theo đường hình cung ngang) để có những vết sẹo tốt nhất không bị căng da.
– Khi bị thương tránh ăn các thực phẩm: trứng, thịt bò, rau muống, đồ nếp, thịt gà… vì những thực phẩm này làm vết thương khó lành và lồi lên trên mặt da rất cao.
– Vệ sinh vết thương hàng ngày bằng nước muối sinh lý để không cho vi khuẩn tác động, làm lồi vết sẹo.
– Hạn chế làm trầy xước những vùng da trước đây đã bị tổn thương,
– Sau khi vết thương lên da non nên bôi nghệ tươi để làm mờ thâm kết hợp bôi thuốc đặc trị để làm lành và mờ sẹo lồi.
Muốn trị sẹo lồi hiệu quả bạn cần thực hiện càng sớm càng tốt, sẹo chỉ dễ làm mờ ngay sau khi vết thương kéo da non. Để lâu, cấu trúc sẹo đã hình thành sẽ rất khó trị và đòi hỏi phải bỏ ra nhiều công sức cũng như tốn kém về tiền bạc.
Một số phương pháp điều trị sẹo lồi hiệu quả hiện nay:
1. Tiêm corticosteroid trong sẹo:
Đây là một trong những phương pháp điều trị chuẩn lâu dài. Tác dụng phụ teo da, dãn mạch tại chỗ tiêm chích hoặc rối loạn kinh nguyệt (đối với bệnh nhân nữ) có thể kéo dài 6 – 12 tháng sau. Phương pháp này có thể được kết hợp với các phương pháp khác như áp Nitơ lỏng hoặc dán Silicone gel để tăng thêm hiệu quả. Tiêm có thể cần được lặp lại vài lần cách nhau mỗi 1 – 2 tháng tùy theo diễn tiến của sẹo lồi và các tác dụng phụ có thể xảy ra cho bệnh nhân.
2. Tiêm 5FU trong sẹo:
Chỉ dùng trong trường hợp sẹo lồi nhỏ, gọn. Tiêm thuốc này gây rất đau cho bệnh nhân. Trung bình sau 5 – 10 lần tiêm mới đạt hiệu quả. Do đó đây là yếu tố giới hạn cho việc áp dụng điều trị.